K’tem - Thân phận người công nhân Việt Nam
K’tem (Danlambao) - Mỗi lần chứng kiến cảnh người công nhân Việt Nam “đình công”, lòng luôn đau xót. “Đình công” chỉ là cách gọi dễ dãi. Nó chưa phải là cuộc đình công đúng nghĩa, nó cũng không phải là cuộc lãng công theo ngôn ngữ công nghiệp. Thật sự, nó chỉ là cuộc bỏ việc, một cuộc không chịu vào bên trong công ty để làm việc của những người không còn cách nào nữa để phản đối. Nếu có dịp chứng kiến hình ảnh đình công của công nhân Nam Hàn hay công nhân Đài Loan đình công trên đất nước họ mới cảm nhận được thân phận người công nhân Việt Nam. Họ đứng trước khuôn viên xí nghiệp, hai tay buông thỏng, gương mặt hoang mạng, ánh mắt ngại ngần. Một ngày nghỉ việc, một ngày không lương, có thể bị chủ đuổi, có thể đối diện nhiều ngày bị đói, và trầm trọng hơn có thể nhận lãnh tai vạ do những tên Công an chìm từ đám đông. Chưa hết tai vạ ấy có thể đến tận nhà trọ họ ở và xa hơn họ có thể bị bỏ tù.
Công nhân Nam Hàn đình công
Công nhân Đài Loan đình công
Công nhân Việt Nam đình công
Giai cấp công nhân từ lâu được coi là đối tượng quan trọng trong việc hình thành chủ nghĩa CS. Những ông tổ CS thường dựa vào sự “mất quân bình giữa tư bản, tiền công và lao động” thời sơ khai của nền kinh tế “tư bản” để cổ súy cho chủ nghĩa CS. Đảng CS tự mang lên người vai trò giải phóng giai cấp công nhân và nông dân không qua ý chí và sự ủy nhiệm của hai giai cấp này. Họ đã lợi dụng các giai cấp này cho mục tiêu và ước muốn của chính đảng mình. Với một địa bàn hơn 80% là nông thôn, và đa số thợ thuyền là “cu li” thời Pháp thuộc, cùng với những chiêu bài ma mị và sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng họ đã cướp được chính quyền một nửa VN, miền Bắc. Rồi sau đó tiến hành chiến tranh đánh miền Nam và chiếm trọn phần còn lại của đất nước. Trước, sau, cả hai miền, đảng CSVN trở thành chủ nhân mới, một loại chủ nhân độc tôn, quyền hành tuyệt đối, đứng trên pháp luật. Người dân, người nông dân hay người công nhân được cho ở bao nhiêu thì ở, được cho ăn bao nhiêu thì ăn, bị chỉ định làm với bao nhiêu sức lao động thì làm.
Người công nhân trong cơ chế quốc doanh của ông chủ CS trước thời “đổi mới” không có một bộ phận nào để bảo vệ. Nhân sự chính quyền nào trên đầu họ từ cấp tổ trưởng cho đến ấp, xã, huyện, tỉnh cho đến trung ương đều là chủ nhân của họ.
10 năm sau khi chiếm trọn miền Nam và làm chủ cả nước, ông chủ mới này không có khả năng làm cho cả nước đủ ăn và đủ mặc. Họ buộc lòng phải “đổi mới” và “cởi trói”. Từ đây họ trở thành liên chủ nhân với những tên tư bản “lô can” vùng Đông Nam Á và Đông Á mà họ liên doanh. Người công nhân Việt Nam bây giờ có hai chủ nhân mới. Chủ nhân cũ với mọi đặc tính cửa quyền và chủ nhân mới - khách mời với nhiều ưu đãi của ông chủ CS. Những tên tư bản “lô can” này bất chấp mọi nguyên tắc ràng buộc về nhân dụng theo chuẩn mực quốc tế mà họ bị bắt buộc khi làm ăn tại các quốc gia Tây phương (hay chính trên bản quốc của họ), cùng với sự hỗ trợ của tên chủ liên doanh (kiêm “cạp rằn” ĐCSVN), họ trả lương rẻ, không tạo điều kiện làm việc tốt và ngược đãi công nhân. Từ đầu thập niên 90, đã có nhiều vụ công nhân bị lôi ra phạt phơi nắng, bị đánh giày vào mặt và tổ trưởng công nhân bị đập giày lên đầu. Người công nhân không được ai bảo vệ. Ở giai đoạn ấy người công nhân vẫn bị ràng buộc theo luật Lao Động của cơ chế quốc doanh.
Thời gian gần đây hình thức liên doanh còn lại rất ít, bên cạnh đó trước sự dễ dãi tối đa và sự chào mời của đảng và nhà nước CSVN (điển hình có thể nghe lại lời phát biểu của Nguyễn Minh Triết trong chuyến đi Hoa Kỳ năm 2007), nhiều công ty ngoại quốc đến đầu mở hãng xưởng tại khắp miền Việt Nam. Nhiều hãng xưởng thuê mướn số lượng nhân công rất đông. Nhưng điều kiện làm việc của nhân công Việt Nam vẫn không khác gì của thời 90s. Ngoài những việc như lập hợp đồng làm việc không theo luật định, không thông qua đại diện công nhân, đuổi công nhân không cần báo trước, người công nhân vẫn còn bị làm nhục, vẫn còn bị đánh đập, vẫn bị bắt làm nhiều giờ, không được nghỉ giải lao, không được trả phụ trội cho việc làm nhiều giờ cùng chính sách thưởng phạt khắc nghiệt.
Càng ngày càng có nhiều cuộc đình công. Những năm 2006, 2007 có gần 1000 vụ đình công mỗi năm. Chỉ cần gõ “công nhân VN đình công” trên internet, là có 34 triệu kết quả. Mới nhất là cuộc đình công của hơn 17 ngàn công nhân hãng Pou Chen của Đài Loan tại TP Biên Hòa, Đồng Nai mà dư luận đang xôn xao.
Tại sao có nhiều cuộc đình công như vậy? Tại sao các công ty lớn với địa bàn hoạt động quốc tế, từng biết nguyên tắc quốc tế về thuê mướn lao động lại có chính sách không phù hợp đối với công nhân Việt Nam trên đất nước Việt Nam? Những câu hỏi này không khó tìm câu trả lời. Đó là sự làm ngơ trước những sai trái này của nhà nước Việt Nam, cái cơ cấu nhận tiền lót tay của những công ty đó.
Không riêng gì những công ty ngoại quốc bắt chẹt công nhân Việt Nam, chính đảng và nhà nước CSVN cũng bắt chẹt giai cấp công nhân của mình. Người ta vẫn còn nhớ cuộc đình công của hơn 90 ngàn công nhân hãng Pou Yuen vào ngày 26, 27 tháng 3 năm ngoái để phản đối luật Bảo Hiểm Xã Hội mà Quốc Hội bù nhìn CSVN thông qua và áp dụng vào năm nay.
Người công nhân chen chúc trong các nhà trọ lụp xụp gần khu chế xuất với cuộc sống bằng gói xôi điểm tâm dọc đường buổi sáng và những bữa cơm chiều muộn màng với nguồn thực phẩm trôi nổi độc hại từ các chợ vỉa hè trên đường về với mức lương tháng không bằng chai rượu ngoại trong tiệc nhậu của quan chức và cả con cái họ, phải sống trong cảnh một cổ hai tròng.
Những thân phận thấp bé này chỉ có một mỗi một vũ khí là “đình công”. Nhưng từ lâu những cuộc đình công không có ý nghĩ trọn vẹn của nó theo chuẩn mực lao động.
Những cuộc gọi là đình công không có bóng dáng của đại diện hay tổ chức thật sự đại diện cho quyền lợi của người công nhân theo từng đặc tính ngành nghề, không có mặt bằng làm việc của luật sư công đoàn và công ty trong tiến trình thương lượng và bảo vệ công nhân trong tiến trình này, và đặc biệt không có bóng dáng của “quyền lực” (power) bên phía công nhân. Đó chỉ là cuộc ngưng việc lẻ loi, và thân phận người công nhân ngưng việc rất mong manh. Họ xách giỏ cơm (vì không làm không được ăn cơm công ty) đến cổng công ty mỗi ngày và chờ đến khi nào công ty đưa người ra phủ dụ, hứa hẹn và kêu họ vào làm việc lại với một vài thỏa hiệp nhất thời nào đó.
Nói đến đây, người ta, và nhất là đảng và nhà nước CSVN sẽ nhắc đến bộ phận công đoàn, luật thành lập công đoàn và cả luật lao động.
Hãy xem Công đoàn là cái gì trong hệ thống nhà nước CSVN.
“Điều 1. Công đoàn
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Và được phép hoạt động như sau:
“Điều 6. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn
2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.”
Công đoàn là một bộ phận chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, và hoạt động dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN).
“Luật Công đoàn đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (tại kỳ họp thứ 7 khóa VIII ngày 30/6/1990) đã khẳng định: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.
Với sự xác định này, người công nhân còn đòi hỏi được gì với “sự tự nguyện” và còn trông mong gì “dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN”?
TLĐLĐVN là tổ chức tối cao của công đoàn, dưới nữa là Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, rồi Công đoàn tổng công ty và cuối cùng là Công đoàn cơ sở. Đây là bộ phận gần công nhân nhất và theo Luật Công đoàn, Công đoàn cơ sở phải có sự chấp thuận của TLĐLĐVN mới được thành lập. Và nhiệm vụ của nó, bên cạnh vài qui ước hành chánh, là: “Tuyên truyền đường lối, chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức công đoàn...”
Rõ ràng công đoàn chỉ là bộ phận của đảng, nhà nước CSVN. Nó được lập ra nhằm đoàn ngũ hóa người công nhân như các đoàn thể khác thuộc Mặt trận Tổ quốc. Nó được lập ra để trao truyền mệnh lệnh của đảng và nhà nước.
Trước một chủ nhân ngoại quốc tham lam và bóc lột và một cơ cấu tổ chức do đảng lập ra nói là cho giai cấp công nhân nhưng thực ra cho đảng, mà đảng này chỉ là một tổ chức nhà nước đứng ra bán công nhân cho công ty ngoại quốc, thì trong những cuộc “đình công” người công nhân Việt Nam, không lo âu, hoang mang sao được – khác với tâm thế hừng hực đấu tranh của các công nhân Nam Hàn, Đài Loan trên đất nước của họ.
Bên cạnh sự hoang mang, rụt rè, lo lắng của công nhân trong các cuộc bỏ việc, người công nhân còn lo sợ một thế lực khác. Thế lực này hiện diện khắp mọi nơi trong xã hội. Chúng là Công An giả dạng côn đồ hành hung công nhân, nhằm tạo xáo trộn rồi bị bắt. Trường hợp tên Nguyễn Văn Hải thuộc CA tỉnh Đồng Nai chém người trong cuộc đình công mấy ngày qua của công nhân Pou Chen tại TP Biên Hòa, Đồng Nai là minh chứng rõ ràng nhất. Xa hơn nữa, người ta cũng còn nhớ nữ công nhân Nguyễn Thị Liễu và 1 người nữa bị cán chết, cùng 4 công nhân bị thương nặng trong vụ bảo vệ công ty đuổi và lấy chỗ của tài xế xe tải để lái xe lao vào cán nhóm công nhân đang đình công tại công ty Đài Loan thuộc khu công nghiệp Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Nội.