Những vụ xử các nhà bất đồng chính kiến trong năm 2011
Định Nguyên, thông tín viên RFA
2011-12-30
“Bất Đồng Chính Kiến” là một thuật ngữ chỉ danh cho những người đưa ra phân tích, phản biện những chính sách của đảng không thật sự phù hợp với hiện tình đất nước, dưới hình thức ôn hòa.
AFP PHOTO
Công an áp giải TS Cù Huy Hà Vũ đến tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sáng ngày 4-4-2011.
Trước hết, xin đề cập tới vụ án Của TS luật Cù Huy Hà Vũ. Đây là một vụ án, mà theo LS Trần Lâm, nguyên thẩm phán tòa án tối cao, cho rằng:“Vụ việc trở nên càng căng thẳng hơn khi phong trào trong và ngoài nước ủng hộ ông Vũ mạnh mẽ chưa từng thấy, như một sức ép đầy uy lực.”
Có một số lý do khiến cho vụ án của TS Hà Vũ trở thành một vụ án quan trọng nhất trong hàng ngũ những nhà bất đồng chính kiến bị kết án trong lịch sử đương đại của Việt Nam.Thứ nhất, Cù Huy Hà Vũ thuộc dòng dõi thế gia khai quốc công thần của triều đại Hồ Chí Minh. Thứ hai, gia đình ông Vũ quyết liệt đấu tranh với chính quyền trong nước cũng như tranh thủ dư luận quốc tế để đòi trả tự do cho ông. Đặc biệt là vợ ông, LS Nguyễn Thị Dương Hà và em gái ông, bà Cù Thị Xuân Bích.
“Quy luật của đấu tranh,
bất kỳ một cuộc đấu tranh nào cũng có sự hy sinh.
Những con người uy tín như vậy
họ đã dám lên tiếng và hy sinh.”
LS Lê Thị Công Nhân
Thêm nữa, lần đầu tiên các luật sư biện hộ cho ông yêu cầu phải có mặt của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại phiên tòa với tư cách đại diện cho “nạn Nhân”và là “nguyên đơn” của vụ án. Cuối cùng là sự ủng hộ rộng rãi của mọi giai tầng xã hội. Vào ngày 25 tháng Giêng năm 2011, đài RFA gửi một lá thư đến Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị “ông Hà Vũ phải được thả ngay lập tức, và cáo buộc dành cho ông phải bị hủy bỏ, và ông Hà Vũ phải được phép bày tỏ chính kiến của mình mà không bị can thiệp trong tương lai.” Cũng nên nhắc lại vụ “Khách sạn Mạch Lâm” mà nhà nước Việt Nam dàn dựng nhằm triệt hạ uy tín của ông là “cú đánh bẩn” khó quên đối với dư luận.
Ông bị xếp loại thành phần “đối đầu với đảng và nhà nước” kể từ cái nhìn của ông về công cuộc “giải phóng miền nam”, kết thúc vào ngày 30/4/1975, khi ông trả lời phỏng vấn của đài VOA, Hoa Kỳ: “Tuy nhiên tại thời điểm hiện nay thì quan niệm đó chắc chắn không chỉ là lỗi thời mà còn là phản động theo đúng nghĩa đen của từ này vì ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã công khai đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.” Đến đỉnh điểm là kiện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vi phạm pháp luật khi cho Trung Quốc khai thác bô xít ở Tây Nguyên.
Nhưng trên hết là trái tim của ông dành cho quê hương và dân tộc. Qua những bài viết ông cho thấy: Việt Nam, về nội hướng, một xã hội đang dần băng hoại do luật pháp bị sử dụng một cách tùy tiện phục vụ cho mưu đồ cai trị hơn là phát triển đất nước; về ngoại hướng, “những thế lực thù địch đang âm mưu diễn biến hòa bình” lãnh thổ và biển đảo của quốc gia.
Cù Huy Hà Vũ bị bắt ngày 05/11/2010. Ngày 04/4/2011, TS Vũ bị kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ông thản nhiên nhìn bản án mà chính quyền gông vào cổ ông như là “cuộc đối đầu chính trị giữa 2 bên, một bên là Đảng Cộng Sản Việt Nam mà ông cho là "chậm trễ như thể cố tình cưỡng lại việc thực hiện một Nhà nước Việt Nam pháp quyền", và bên kia là "Cù Huy Hà Vũ như một tiếng nói đại diện cho tất cả những tiếng nói đòi xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền."
Nhận định về TS luật Cù Huy Hà Vũ, TS Nguyễn Thanh Giang cho đó là một con người thật sự dũng cảm. Ông nói:
“LS Cù Huy Hà Vũ là một trong những người dũng cảm nhất. Ông đã nói được những vấn đề lớn. Ông khuyên đảng, nhà nước hãy chống tham nhũng một cách có hiệu quả. Ông khuyên là phải có thái độ đúng mực đối với sự xâm lấn của Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của đất nước. Và, đặc biệt ông rất phản ứng với chuyện đưa Trung Quốc vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Như vậy không chỉ là tàn hại về kinh tế, phá hoại môi trường mà đặc biệt nghiêm trọng vì chỗ ấy là vị trí chiến lược có thể dẫn đến mất nước. Ông có cái tầm lớn và thật sự dũng cảm.”
Những bản án khắc nghiệt
Bức tranh chân dung Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng của Họa sĩ Trần Lân. Courtesy Họa sĩ Trần Lân.
Trường hợp Đỗ Thị Minh Hạnh là trường hợp khá đặc biệt. Chị xuất thân từ gia đình có công với cách mạng. Khi chị bị bắt, gia đình dựa vào quan hệ này cố xoay trở để giảm án cho chị. Nhưng chị đã khẳng khái từ chối. Chị cho rằng: “Má lấy thành tích cách mạng của gia đình để được hưởng những quyền lợi, để được giảm án, chính là điều làm sỉ nhục đối với con, vô tình làm nhục con.”
Từ xuất phát điểm này, chị trở thành nhà bất đồng chính kiến khi tuổi đời còn rất trẻ.
Năm 20 mươi tuổi bị bắt giam ở Hà Nội vì tội giúp đỡ dân oan kêu cứu. Năm 22 tuổi, chị tham gia giúp đỡ, hướng dẫn phong trào công nhân đình công tranh đấu với giới chủ ở nhiều xí nghiệp công ty. Năm 24 tuổi cố bí mật vượt đường bộ qua Căm Bốt, Thái Lan để đến Mã Lai tham dự Đại Hội kỳ 2 của Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động VN. Đặc biệt chị là thành viên của Ủy Ban Hành Động Vì Dân Chủ Việt Nam với bí danh Hải Yến trên cương vị phát ngôn viên.
Nhưng thành tích nổi bật nhất làm cho chị trở thành “bị cáo” là vụ đình công của công nhân công ty giày Mỹ Phong tại Trà Vinh. Nhận được lời kêu cứu từ công nhân chị và hai người bạn, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, len lỏi vào cơ xưởng công ty, vận động công nhân đình công để phản đối giới chủ ăn chận tiền lương và tiền thưởng tết vào tháng 1/2010. Cuộc đình công kèo dài một tuần và kết thúc thành công. Điều quan trọng, lần đầu tiên vấn đề tổ chức công đoàn đòi hỏi phải thuộc về công nhân. Điều 6 trên tờ truyền đơn kêu gọi đình công, nhóm của chị nêu rõ: “Công đoàn công ty phải do chúng tôi bầu ra và chúng tôi sẽ trả lương bằng công đoàn phí đóng hằng tháng. Công đoàn phí phải do chúng tôi bầu ra và nắm giữ.”
“Má lấy thành tích cách mạng của gia đình
để được hưởng những quyền lợi, để được giảm án,
chính là điều làm sỉ nhục đối với con, vô tình làm nhục con.”
Đỗ Thị Minh Hạnh
Một bản án khắc nghiệt đã áp lên đầu ba người: Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm; Đỗ thị Mỹ Hạnh 7 năm và Đoàn Huy Chương (tức Nguyễn Tấn Hoành), chủ tịch Hiệp Hội Công Nông, người đã từng bị ở tù 18 tháng vào năm 2006 về tội rải truyền đơn, nay bị kêu án 7 năm.
Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất trong những khuôn mặt bất đồng chính kiến là nhà báo Nguyễn Văn Hải, tức Blogger Điếu Cày. Ông là sáng lập viên và thành viên chủ chốt của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do và trang web Dân Báo. Nơi quy tụ những người có tâm huyết với đất nước, đặc biệt là những hoạt động chống đối sự bành trướng gây hấn của Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Ngày 19/4/2008, ông Nguyễn Văn Hải bị bắt tại thành phố Đà Lạt mà lý do ai cũng biết là tham gia biểu tình chống Trung Quốc nhưng bản án cho ông lại quy vào tội trốn thuế.
Điều đáng nói là sau khi mãn án ông vẫn bị bí mật giam giữ. Vợ ông là bà Dương Thị Tân đã gõ cửa mọi cơ quan hữu trách, không một ai trả lời, không một ai cho bà biết điều tối thiểu là sức khỏe của ông Điếu Cày hiện nay như thế nào, khi có tin ông bị mất một tay? Bà Tân cho biết tình trạng hiện nay của ông Điếu Cày như sau:
“Vẫn như trước, họ né tránh mọi câu hỏi của tôi và họ không có một văn bản trả lời chính thức nào cả. Họ nói chị muốn gì thì về làm đơn. Thực sự thì đơn của tôi đã quá nhiều, tôi bảo bây giờ tôi hỏi trực tiếp nếu anh không có quyền giải quyết thì cho tôi gặp lãnh đạo. Nhưng họ cũng không cho.”
Bà Dương Thị Tân và ông Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày) chụp năm 2004. File Photo.
Vụ án của Lê Công Định và Trần Huỳnh Duy Thức, là 2 trong nhóm 4 người bị nhà nước ghép vào tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” là vụ án gây nhiều tranh cãi nhất. Họ đều là những người thành danh và thành công trong xã hội về hai phương diện sở học và doanh nghiệp.
Bản án dành cho họ làm dư luận hết sức phẫn nộ. Trần Huỳnh Duy Thức là người bị kết án nặng nề nhất với 16 năm tù, 5 năm quản chế. LS Lê Công Định 5 năm tù và 3 năm quản chế.
Những ngày cuối năm 2011, nguồn tin từ gia đình luật sư Lê Công Định cho biết ông sẽ được phóng thích làm người ta hy vọng trường hợp của ông Trần Huỳnh Duy Thức có cơ may được xem xét lại.
Thân phụ ông đã gởi đơn đến các quan chức cấp cao của chính phủ, quốc hội và gần đây nhất thân phụ ông Thức đã gởi thư cho ông Obama, Tổng Thống Hoa Kỳ, với hy vọng con ông được đối xử bình đẳng như các người chung vụ hay ít ra phải giảm bớt mức án mà ai cũng thấy rằng vô lý.
Tình hình đàn áp những người đấu tranh không bao giờ chấm dứt tuy nhiên theo LS Lê Thị Công Nhân sự đấu tranh tất yếu sẽ thành công. Vấn đề là thời gian:
“Quy luật của đấu tranh, bất kỳ một cuộc đấu tranh nào cũng có sự hy sinh. Những con người uy tín như vậy họ đã dám lên tiếng và hy sinh, tôi nghĩ tương lai của phong trào đấu tranh cho dân chủ chắc chắn sẽ thắng lợi, và thắng lợi đó cũng sẽ đến sớm thôi. Đối với vận mệnh của cả một dân tộc với cả trăm triệu người thì đơn vị thời gian cũng sẽ lâu dài một chút.”
Trong năm 2011 còn rất nhiều nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền vẫn còn trong vòng tù tội, như: LM Nguyễn Văn Lý, Lê Thăng Long, Phạm Minh Hoàng, Tạ Phong Tần, nguyên trung tá Trần Anh Kim..v..v. Chỉ mong sao ngày càng ít đi những nhà tranh đấu khi chính quyền Việt Nam hiều rõ xu thế tôn trọng quyền làm người và thực thi dân chủ là không thể cưỡng lại và từng bước thay đổi cách đối xử với những con người có lòng thiết tha với dân tộc đất nước.
CHÚC CÁC BẠN MỘT NĂM MỚI 2012 BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC !!!
Sacramento đang mùa mưa ẩm ướt, tiết trời thu se lạnh, cảnh vật mấy hôm nay tự nhiên vừa ủ rũ vừa trầm tư. Trước đó, thiên nhiên nơi đây luôn hài hòa, nay trở lên buồn lắng. Khung cảnh mùa thu sao mà mênh mang, da diết lạ thường.
Từ sâu sa trong mỗi tế bào của chị như có hiện tượng thức giấc, những ký ức đắm chìm, bao kỷ niệm vùi lấp giờ bỗng bật mình trỗi dậy với tất cả sức mạnh của chồi non tơ tràn căng sức sống...
Chị nhớ em quá chừng, nhớ gương mặt sống động, nghịch ngợm của em khi kể chuyện vui, tếu. Nhớ những nét căm hờn còn đọng lại trên ánh mắt, khóe miệng giận dữ của em mỗi khi gặp phải điều bất như ý. Mà trời ơi, trong nhà tù cộng sản thì điều bất như ý là chuyện xảy ra không chỉ từng ngày mà là từng phút, từng giây.
Nhớ đôi dép trái em đi, bộ quần áo tù em mặc, không hề như những người tù thường phạm hoặc chính trị khác, mà chỉ riêng em mới có. Đơn giản vì từ khi sinh ra trên đời, biết xỏ chân vào đôi dép để đi cho sạch, em đã quen đi trái. Nhiều khi bị bạn bè, gia đình phản đối, em cố đi lại cho đúng như mọi người thì lại bị những cạnh sắc của nhựa cứa vào làm đau nhức. Thế là thói quen tâm lý luôn chiến thắng thói quen hành động, em lại tiếp tục xỏ trái dép như cũ.
Một điều đặc biệt nữa là đôi dép em đi là dép của trại phát, cả chục người trong buồng giam cùng dùng, vì thế không thể tránh được hiện tượng nhầm lẫn mất mát. Để khỏi mất thời gian cho việc tìm kiếm, cáu gắt, em bực mình cắt phăng mũi dép đi cho bằng chằn chặn, khỏi nhầm, khỏi mất và tất nhiên trở thành độc nhất vô nhị. Vừa buồn cười, vừa...mốt.
Ngay bộ quần áo em mặc trên người cũng vậy, không giống ai. Trong khi cả trại, dù nghèo hay giàu, đều cố dồn 3 bộ kẻ ngang lại để may thành một bộ kẻ dọc, trông đỡ “tù” túng, giống với xã hội hơn. Riêng em quan niệm: “Quần áo không làm nên thầy tu, thì cũng không làm nên người tù, vì thế, đã buộc phải mặc thì kẻ ngang, kẻ dọc nào có quan trọng gì? Việc gì phải mất tiền, mất công sửa đi sửa lại mà thân tù thì mãi vẫn là thân phận tù.”
Chính vì lý lẽ sắc sảo ấy của em mà cả trại một mình em một kiểu, áo kẻ ngang, rộng thùng thình, dài qúa khổ, chưa kể em chỉ cần duy nhất một bộ để xuất xưởng, về trại. Còn bộ kia, do trong lúc sơ suất, bị lũ tù tự giác đóng dấu phạm nhân to tướng, đen sì vào sau lưng, em đã tức giận vứt vào sọt rác luôn. Thế là thành “công tử nhất bộ”.
Chế độ độc tài cộng sản được xây dựng lên bởi những kẻ vô học, thất đức...Bao người tài, người có công với cách mạng bị “cha già dân tộc” giết chết trong cải cách ruộng đất, chỉnh huấn, chỉnh quân, thanh trừng nội bộ...Trớ trêu thay (hay là điều tất yếu phải xảy ra), những tên lãnh đạo cộng sản này đã trở thành những thằng thầy phản diện, dạy cho công an phải biết lắng nghe và làm theo ý muốn của chúng. Và công an, theo thời gian, càng ngày càng trở thành những học trò vô cùng...xuất sắc. Tự bọn chúng, với tư chất gian manh, láu cá đã nhanh chóng nhận ra rằng: Trong môi trường xã hội chủ nghĩa, cái gọi là tội ác, tham nhũng, dối trá không phải là cái quái thai, dị biệt mà ngày càng trở nên phổ biến, ngày càng nhan nhản khắp nơi. Vì vậy, tội gì không hùa theo bầy sói đói, sói đỏ ở trung ương mà gào... Chính chúng nó đã làm hư hỏng xã hội và con người Việt Nam. Còn chị em mình, đau đớn thay, không thể nào chịu nổi một xã hội ngày càng tha hóa, xuống cấp, đi ngược lại truyền thống đạo đức của ông bà, tiên tổ nên đã âm thầm đứng lên chống lại và trở thành nạn nhân của bọn khốn, sớm hay muộn cũng phải vào tù.
“Một cây làm chẳng nên non, ba cây chum lại nên hòn núi cao”. Sau khi Lê thị Công Nhân về, đến lượt em vào thế chỗ. Một tháng sau đến chị và Trần Ngọc Anh. Từ lúc nhận được tư tưởng, tình cảm của nhau, ba chị em lúc nào cũng dính như keo, đến mức lãnh đạo trại phải tìm mọi cách để cấm vận theo kiểu quan thầy của chúng: “Chia để trị”. Ngày lễ, ngày nghỉ, chúng khóa cổng khu lại để ba người không gặp được nhau, nói xấu đảng và nói xấu trại. Tất nhiên, số đông chị em tù cũng bị ảnh hưởng theo. Lập tức những tiếng la lối vọng lên từ khắp các khu:
“Trời ạ, trước kia có bao giờ cấm trại thế này đâu, chỉ vì mấy con phản động mà cả trại khổ lây”.
Thời gian đầu, một mình chị làm ở đội bạc, phải xuất trại để đến xưởng. Một ngày 9,10 tiếng đồng hồ bị hun trong lò hấp thịt người khổng lồ, nhiệt độ lúc nào cũng ở mức 42, 45, thậm chí 52 độ C vì cái nóng, nắng khủng khiếp ở xứ này, lại còn cả gió lào thốc tháo thổi sang. Xưởng bạc phải che chắn kín như bưng để bạc không bay. Chị không sao thích ứng nổi, lồng lên đòi chuyển sang đội ốm mà suốt 3 tháng trời lãnh đạo trại cũng như cán bộ y tế, không mảy may đoái hoài quan tâm, hành chị khốn khổ, tưởng phải ra núi Mành(*) đến nơi. Ấy thế, khi toàn trại có lệnh xuất xưởng, cả đội thêu của em và đội may của Ngọc Anh đều phải xuất theo. Ba chị em mình vừa kịp chụm đầu bên nhau được hai ngày, sang ngày thứ 3, sợ ảnh hưởng tới tình hình an ninh chung của trại, chị lập tức bị chuyển về đội trồng rau, thuộc khu vực nông nghiệp cách xa em và Ngọc Anh cả một quãng dài. Ngày thường không thể có thời gian gặp nhau nữa, chỉ có thể trông thấy nhau vào những ngày nghỉ cuối tuần, khi cả ba cùng đồng tâm hiệp lực, kiên quyết không ra khỏi buồng vào thứ 7, chủ nhật. Câu nói “nổi tiếng” của chị em mình đã được ghi vào kỷ lục “ghi net” của trại, đồn khắp các khu, qua miệng của cả nghìn chị em tù:
- Chúng tôi là con người, không phải sức trâu, sức ngựa mà muốn sỏ dây thừng vào mũi lôi đi đâu, bắt làm gì cũng được.
Hoặc:
- Xin lỗi, đây không có nhu cầu làm việc vào thứ 7, chủ nhật, xin các vị nhớ cho.
Và:
- Tôi không làm, có đánh chết tôi cũng cũng không làm. Cải tạo một tuần 5 ngày là đủ lắm rồi.
Co kéo, dọa nạt, gằn hắt mãi không được, từ cán bộ quản giáo đến lãnh đạo trại phải kiềng chị em mình, coi như “không chấp” ba chị em nhà knt (**).
Ấy thế, tranh thủ gặp nhau trong nửa tiếng đồng hồ ăn cơm, chị và Ngọc Anh kéo sang chỗ em, chỉ một, hai bữa là lãnh đạo trại lại hoảng lên, quyết bắt ba đứa phải tách ra thành ba “cù lao cô đơn”, ba “vì sao hấp hối” không được gặp nhau, cũng như không cho gặp cánh tù thường phạm của trại. Hễ cứ dính lấy nhau, y như rằng trưởng buồng được cán bộ quản giáo gọi lên phòng thi đua nhắc nhở, và lại tự đặt mình vào mối quan hệ con người cầu xin con người:
- Chị xin em, bà Tuyết vừa gọi chị lên xong, bà nhắc người khu nào phải về khu ấy, không được tự ý sang khu khác sinh hoạt. Bọn em “án ngắn” không sao, chứ bọn chị án dài, cần phải được xét giảm. Em thương chị, thương các cháu côi cút ở nhà, đừng tụ tập ăn uống ở đây nữa mà khổ chị, khổ lây cả các cháu ra...
Các tù thường phạm khác, hễ cứ léng phéng muốn mượn báo chí, sách vở hoặc trao đổi “cuối mắt đầu mày” với chị em mình là trăm lần như một, bị điệu lên phòng gặp cán bộ, bị “tổng sỉ vả” tối tăm mặt mũi:
- Muốn ăn vả hả, có muốn ăn vả không, có biết Trần Khải Thanh Thủy, Phạm Thanh Nghiên, Trần Ngọc Anh là ai không mà dám quan hệ hả?
Ấy thế tấm biển của trại bao giờ cũng đề: “Trật tự, kỷ cương, tình thương, pháp luật”. Không hiểu tình thương ấy là thứ tình thương gì khi người với người cũng bị cấm đoán, ngăn cản?
Trước khi vào trại, nghe chuyện Lê thị Công Nhân bị kỷ luật trước sân chung chỉ vì thương bạn tù cùng buồng, tặng bạn một cái chăn để đắp, chị đã không tin. Vào trại rồi, càng thấy những điều bất nhẫn, vô lương của đám cai tù, khi tất cả những gì Nhân để lại cho bạn tù sử dụng trước đó, đều bị lũ cai tù thu lại. Đơn giản vì chúng coi những tư tưởng của chị em mình vượt trội so với tầm kích của đám đông. Thấy tận mắt những thứ mà bạn tù không quan tâm, không hiểu biết, sợ chị em mình chỉ ra những cái sai, cái xấu lồ lộ phơi bày trong xã hội cho những người tù xấu số bất hạnh khác...Chỉ 3 chị em nhà “ktn” đã đủ loạn trại rồi, thêm vài đối tượng “ktn” nữa, chắc trại phải giải thể mất?
Những việc chị em mình làm được cho chị em tù tuy không nhiều nhưng bạn tù phải nhắc mãi.
Trong khi những tù nhân khác phải gọi cán bộ là ông, bà xưng cháu, thì 3 chị em mình một điều cán bộ, hai điều tôi, và ngược lại cán bộ cũng phải một điều chị, hai điều tôi, chứ không thể “cá mè một lứa” như với tù thường phạm được:
- Này nói lại đi, bà nào ở đây, cháu nào ở đây đấy? Đây không có bà, có cháu nào hết nghe không? Nói lại!
Đó là những câu hỏi ngược mà chị em mình vẫn dùng mỗi khi nghe lũ cai tù thân mật xưng hô bà cháu với mình.
Vẻ mặt rắn đanh, bất cần đời, giọng nói lạnh tanh, kiên trì nhắc đi nhắc lại hai tiếng: “Nói lại, cho phép được nói lại” ngược hẳn với thái độ thân tình cởi mở của chúng, khiến chúng phải giật mình, lí nhí đáp:
- Tôi xin lỗi, tôi không cố ý, lần sau tôi sẽ không thế nữa! Thật là miếng ngon nhớ lâu mà lời đau cũng nhớ đời.
Còn cánh bạn tù thì hả hê đắc thắng, rỉ tai nhau:
- Thế mới đáng mặt là tù chính trị chứ, đâu có dễ để cho chúng nó đè đầu cưỡi cổ như bọn “ đầu trộm, đuôi cướp” chúng mình được.
Ở trại, bị cấm đủ thứ, từ dao kéo, đến đồ sành sứ, thủy tinh, tất cả đều là nhựa. Xô nhựa, chậu nhựa, bát nhựa, thìa nhựa,dép nhựa v.v đến đôi đũa ăn bằng tre cũng không được dùng, bộ quần áo bò gia đình gửi lên cũng không được nhận vì trong lịch sử giam giữ của 900 trại tù lớn nhỏ ở Việt Nam, đã có biết bao vụ trọng án hoặc tự tử do xé quần, áo bò làm dây treo cổ, dùng đũa vót nhọn để đóng xuyên tai bạn tù khi đang ngủ gây ra những cái chết thảm khốc, hoặc dùng vật nhọn bằng sắt, thủy tinh, mảnh sành, sứ tấn công nhau trong những lúc tức giận. Vì thế cai tù giải thích:
- Chúng tôi cấm là muốn làm điều tốt cho các chị thôi, nếu để các chị tùy nghi sử dụng thì hơi một tí là lôi ra đâm chém giết nhau à? Ai đền mạng cho các chị?
Đáp lại lời giải thích đầy lý sự...cùn của quản giáo, em thủng thẳng:
- Thế nếu có một người tù chán đời đập đầu vào tường chết thì cán bộ cũng cho đập hết tường đi để chị em chúng tôi được “xổng chuồng” à?
Trước những cấm đoán vô lý và lời hạch hỏi của em, cai tù lập tức im bặt.
Để ngăn chặn nạn cờ bạc, hối lộ trong tù, Nội quy của trại là cấm tù nhân tiêu tiền mặt. Tất cả đều phải gửi qua ban hậu cần để nhận tiền lưu ký. Trong khi canteen của trại lại ra xác lệnh:
- Vì tiền lưu ký lãnh đạo trại chưa kịp thanh toán, nên khuyến khích tiêu tiền mặt. Nếu ai dùng tiền phiếu thì mỗi người chỉ được phép tiêu 20.000 đồng một ngày.
Giữa lúc giá cả tăng vọt, giá như người buộc xích lôi đi. Một lạng thịt đã là 12.000 đồng, chưa kể 5.000 đồng thuê tù tự giác nấu chín, thật không bõ dính răng. Ba chị em mình là những ngòi nổ đầu tiên phản đối luật lệ quái gở, oái oăm này. Chỉ một người hất hàm:
- Quy định đâu, điều mấy, khoản mấy, ai ban hành, ở đâu, lúc nào?
Hoặc:
- Tiền gia đình tôi gửi vào là giấy lộn hay sao mà không được phép chi dùng? Hay để tôi làm đơn lên trưởng trại hỏi?
Thế là cán bộ sợ líu lưỡi lại và phải rút ngay lệnh ban bố trên, dù có mua cả trăm nghìn tiền lưu ký cũng phải bán. Mỗi lần bệnh tật đau ốm, dù đau đầu, đau bụng, hay cấp cứu cũng chỉ được hai viên xê đa hoặc cloxit, giá không đáng vài trăm đồng, đúng như cánh bạn tù truyền lại: “Đau đầu uống cloxit, đau đít uống xêđa, ha ha”.
Biết luật, cả 3 chị em cùng đòi hỏi:
- Quy định của cục V26 (cục quản lý trại giam) mỗi ngày một người tù được hưởng tiêu chuẩn là 2.000 đồng tiền thuốc cơ mà, cả tháng chúng tôi mới mò lên xin thuốc một lần, chỉ hai viên này mà đủ 60 nghìn ư?
Để khỏi há miệng mắc quai, đám lương y kiêm hà bá, thầy thuốc như mẹ mìn này không bao giờ dám đối xử trịch thượng hoặc thô bạo với 3 nhà dân oan, dân chủ chúng mình nữa. Số đông chị em tù cũng được “mát mặt, thơm lây”. Hễ vác mặt lên y xá mà xin không đủ lượng thuốc uống lại cầy cục ba chị em lên nói khó hoặc xin giúp.
Mức khoán của trại luôn ở mức cao, không phải ai cũng đủ khả năng hoàn thành, người tù đã khốn khổ vì mức khoán không đủ, ảnh hưởng tiêu chuẩn đạo đức, xếp loại, bị cắt xét giảm hàng năm,lại còn bị quản giáo dày vò, hành hạ khốn khổ. Mắng mỏ, trù dập chưa đủ, thậm chí còn dùng giày của ngành để đá đổ bát cơm trên miệng họ. Một lần chứng kiến cảnh đó, cổ họng em sôi réo nỗi căm hờn, em đứng chống nạnh, bạnh quai hàm, mắt vằn lên, chỉ thẳng tay quát mắng:
- Đồ mất dạy! công an nhân dân mà thế hả, ai đẻ ra mày, ai dạy mày dám đối xử với tù nhân thế hả, đây là 6 điều bác Hồ dạy công an phải không, hay chúng mày học tập và làm theo tư tưởng vĩ đại của bác?
Lần đầu tiên gặp phải sự phản kháng quyết liệt đến vậy, tên quản giáo nữ cứng họng, đờ hàm nhưng vẫn cố tỏ ra bình tĩnh:
- Chị là ai, việc gì đến chị? Ai cho phép chị xúc phạm đến ngành công an chúng tôi, xúc phạm bác?
- Á à, nghiến quai hàm trèo trẹo, em quay mặt về phía các bạn tù đang vây kín “ hiện trường” dõng dạc đáp:
- Mọi người làm chứng nhé, xem hôm nay tôi có dạy nổi tên công an khoác áo đảng mất dạy này không? Nếu nó không xin lỗi chị Hồng, tôi thề sẽ đưa nó ra tòa vì tội xúc phạm cơ thể và danh dự của tù.
Đám đông lập tức thu hút sự chú ý của ban giám thị trại. Biết rằng không thể áp đảo được em lúc này, bèn tìm cách xoa dịu, lùa các nữ tù vào xưởng làm việc để còn giải vây cho đồng đội...
Hành động “côn đồ” lập tức bị sửa sai thành... ”do sơ ý bước nên không để ý, không may vấp vào bát mỳ để cạnh lối đi chứ không phải dùng giày đá bát cơm chị Hồng đang ăn”.
Lời đề nghị đanh thép của em cũng lập tức được chấp thuận. Sau này cánh bạn tù kể lại: “Tên cai tù bị gọi lên gặp lãnh đạo trại mặt tái mét, cứ nhắc đi nhắc lại với đồng nghiệp tức “bà đội” của chúng nó:
- Chị ơi, liệu em có làm sao không? Có đúng như Phạm Thanh Nghiên nói em sẽ bị kỷ luật đuổi khỏi ngành hoặc đi tù một năm không hả chị?
Chuyện tù còn dài, kể cả nghìn lẻ một đêm cũng không hết, nỗi nhớ về em cũng đã vơi bớt một phần, Chị sẽ chờ một dịp thuận tiện khác để kể thêm.
2. Tính ngày tính tháng thì Nghiên còn phải ở lại trong tù 7 tháng 25 ngày nữa (14-8-2008). Tám tháng ở ngoài như một cái chớp mắt, như một giấc ngủ ngày. Còn trong tù thì lê thê ghê rợn làm sao, xung quanh lúc nào cũng là những bộ mặt nhàu nát, thê thảm của bạn tù — phản ánh trung thành nỗi đau ngút trời mà họ vô cớ phải chịu, không phải một năm, hai năm mà 18, 20, 30 năm hoặc tù chung thân luôn. Bên cạnh đó là những bộ mặt cau có của cai ngục, quản giáo, chính xác hơn là của những con thú có bộ lông đẹp đẽ, luôn quay mặt trước nỗi thống khổ của tù hình sự, càng không đếm xỉa gì đến cái gọi là nhân cách lương tri, lý tưởng của những tù chính trị. Những kẻ này chỉ cần biết có tiền, vì vậy phải giẫm chân lên nhân cách mình hay cởi truồng về nhân cách như những quan thầy của chúng. Cụ thể một tên cán bộ hồn nhiên nói với hai chị em mình, trước đông đảo “đồng nghiệp, đồng chó” của chúng:
- Chúng tôi được đảng và nhà nước đào tạo cho ăn học thì phải bảo vệ đảng, bảo vệ bác, không cần biết đúng hay sai, cứ ai chống đảng, nói xấu bác Hồ là chúng tôi bắt. Nếu sau này, thời thế thay đổi, các chị lên làm lãnh đạo, trả lương cho chúng tôi, chúng tôi sẽ bảo vệ các chị đến cùng, bắt giam những kẻ chống lại các chị, kể cả người đó là người thân thiết ruột thịt đi chăng nữa...
Thật là miệng lưỡi của những công cụ, của những cỗ máy giết người không ghê tay, tự đánh tuột hết cả tư duy tối thiểu là phân biệt phải, trái đúng sai, cũng không cần biết thế nào là đại nghĩa nữa, vậy mà hễ mở miệng ra là hô khẩu hiệu: “đại nghĩa diệt thân”.
Gần 1000 ngày trong tù, trải đủ cả 4 mùa xuân hạ thu đông, chị thấm thía cái lạnh của mùa đông đất Bắc, rét quắt tai, cứng hàm, tê buốt các đầu ngón tay, ngón chân, thở cả ra đằng mũi... Lúc này năm hết, tết đến rồi, nơi trại 5 đang lạnh lẽo lắm, nằm co ro trên bệ xi măng giá lạnh, những tấm chăn của trại phát có đủ ấm cho em không, Nghiên ơi? Chị tuy đã là người của tự do, sống trong một bầu không khí khác hẳn, tự tạo ra được sự thăng bằng, hoàn hảo cũng như các yếu tố vật chất năng lượng bên trong để thích nghi cao độ với môi trường mới rồi, nhưng lúc nào cũng nghĩ tới em. Trải qua bao kỷ niệm gắn bó, bao khổ ải, oan nghiệt cay đắng trong trại, nên dù điều kiện sống có thay đổi thế nào chăng nữa, tất cả tình cảm của chị đối với em không thể chai mòn, thui chột được.
Chế độ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nổi tiếng là làm láo, báo cáo hay, không biết sơ múi được gì mà liên tục có các đoàn thanh tra từ bộ, sở ngành, thành phố, trung ương xuống. Cứ mỗi lần thanh tra là một lần loạn trại, đặc biệt là phòng thi đua của chị, cả phòng có 61 người thì có 60 người là giúp việc cho cán bộ — trừ chị là tội phạm nguy hiểm chuyên sử dụng bút nói xấu trại và chống phá đảng nên bị đưa vào để 60 chị em tù cải tạo hộ tư tưởng lập trường, quan điểm. Dẫu không tẩy não, thay đổi được gì thì cũng là 60 đôi tai, cặp mắt theo dõi 24/24 giờ để cảnh giới, báo cáo cán bộ, nhằm chặn đứng “ý đồ xấu” mỗi khi chị sử dụng ngòi bút.
Cũng bởi là phòng “ VIP”, toàn cánh tù có máu mặt, dây mơ rễ má với cán bộ nên gi gỉ gì gi, cái gì cũng nhất. Phòng gọn gàng, ngăn nắp nhất, chỗ ở gần cổng ra vào nhất, khách đến tham quan nhiều nhất... vì thế tha hồ mà chạy...hơn chạy giặc. Hễ đoàn vào là đội trưởng đội thi đua đích thân chạy xuống đốc thúc nhắc nhở, bắt trực buồng phải “nhấc chân động tay”, nào khuân đống ghế ngồi xuống dãy lều ở phía sau, nào kiểm tra chăn màn, quần áo giày dép...tất cả cứ phải nhét kỹ, nhốt chặt, không được để xót bất kỳ một thứ gì trên dây phơi, dù chỉ là khăn mặt, mắc áo... nơ buộc tóc. Cả phòng 61 chỗ nằm là 61 túi nội vụ gọn gàng nơi đầu giường, còn lại dép guốc, ca cốc, đồ dùng phải...chuẩn bị tinh thần đi sơ tán vào các ngóc ngách xó xỉnh trong cùng của cả dãy lều lán đựng hòm xiểng phía sau... Trái ngược với tâm trạng nặng nề căng thẳng của cánh chị em tù, chỉ mong đoàn vào cho nhanh rồi biến đi cho sớm, em loan tin toàn trại: “Có giỏi thì vào gặp ba chị em chúng tôi đây này, đừng có đeo mặt nạ, đẽo lưỡi gỗ mà báo cáo láo nhé”.
Dĩ nhiên là chẳng có ma nào dám dẫn đoàn vào để chường mặt chị em mình (vì sợ bị bóc vở, lòi ra những cái sai, xấu trong trại). Không phải cảnh “xấu trại thì hổ... trung ương” mà càng xấu thì càng đồng nghĩa với việc phong bao nhiều hơn, càng tốn kém thêm. Nên cách duy nhất của cai tù là: “Với con hổ cách ba bước, với người say cách 7 bước, còn với chị em mình phải cách 10 bước”. Chúng sợ chị em mình như người dân sợ hổ, sợ kẻ say rượu, cho dù chị em mình chỉ là những kẻ say sự thực, dân chủ nhân quyền và tự do, nhưng phương châm của lãnh đạo trại là: “Cùn, cùn nữa, cùn mãi theo gương bác Hồ vĩ đại.”
Thay vì để chúng phải chủ động né tránh, hễ nghe tin có đoàn đến là em “xăm xăm băng nẻo... sân chung một mình”, đứng chặn đường để hỏi, để hạch... Cái bóng dáng bé nhỏ của em ngồi giữa sân chờ đoàn đến, thu hút bao nhiêu sự tò mò chú ý đầy thích thú của cánh chị em tù...Một lần, không ngờ tới tình huống oái oăm này, trưởng trại Lường văn Tuyến phải lập tức dẫn đoàn đi ngả khác, tránh xa cái dáng ngồi hừng hực bất động của em giữa sân chung, trong khi cả đoàn, kẻ trước, người sau đang vui vẻ nói cười giả lả chợt khựng lại trước cặp mắt thách thức nảy lửa, cười cợt, coi thường của em và ngậm chặt...cầu dao miệng, quay đi đầu không ngoảnh lại, mặc sau lưng bao khúc khích vui đùa của cánh chị em toàn trại.
Quá quen với việc tước đoạt quyền tự do của tù, nên một lần vừa thấy cái bóng dáng bé nhỏ của em chênh chao bước vào khu vực khám chữa bệnh, cán bộ y tá (mới) hất hàm:
- Chị kia, muốn gì? Lại cáo ốm để trốn cải tạo hả, đi về, về ngay.
Khựng lại trước thái độ có một không hai của cái gọi là “mẹ hiền, từ mẫu, em đáp gọn lọn, khó nhoc:
- Tôi bị đau họng, ho, uống thuốc 5 ngày liền chưa khỏi, cần phải tiêm.
- Tiêm chích gì, có tiền không mà đòi tiêm? Ra khỏi phòng đi cho người khác vào!
Sự chịu đựng nào cũng chỉ có giới hạn, sẵn cái ghế ở cạnh tường, em nhấc bổng lên, đập mạnh vào tường :
- Này thì không khám này, này thì hạch sách này... này. Lần đầu tiên chứng kiến sự phản ứng của tù nhân, những con người khốn khổ, mà phương châm hành xử duy nhất chỉ là kể lể, nài xin, đặt mình vào mối quan hệ con người cầu xin con người, nay bỗng dưng thấy một kẻ dám chống mắt nhìn đầy thách thức lại còn thể hiện sự tức giận bằng hành động nữa, cán bộ trợn tròn mắt, tưởng nổ tung cả con người ra ngoài, tay cầm ống nghe run lật bật.
Quày quả bước đi, em còn nghe rõ tiếng của chị em tù láo nháo phía sau:
- Phạm Thanh Nghiên, tù chính trị đấy bà ạ, đến ông Tuyến còn phải ngại vì hiểu biết lý lẽ luật pháp rõ lắm, không ngô ngọng dốt nát như cánh chị em ma túy, lừa lọc bọn cháu đâu.
Thế là không cần phải chờ, phải đợi, phải gặp lãnh đạo trại, ngay lập tức có bạn tù ra chèo kéo em vào theo lời mời vồn vã nồng nàn của cán bộ y tế, và trong khi chờ tiêm những câu thăm hỏi chân tình của cán bộ nổ như ngô rang gặp cát nóng:
- Ôi chị Nghiên trẻ thật, đã 34 rồi cơ à, chồng con gì chưa, chưa à? Ngày mai chị lại chịu khó lên nữa nhé, cố gắng tiêm đủ 5 mũi thuốc mới có tác dụng, mà gắng ăn cho nhiều vào kẻo tiêm kháng sinh rộc người lắm, chị ạ.
Vốn nhỏ bé, từ lẫm chẫm biết đi em đã có biệt hiệu là “Nấm”, cao 1m47, nặng 39 ký, nhưng từ ngày về trại em trở thành biểu tượng đấu tranh cho chị em, thành chỗ dựa,niềm tin vững chắc của cánh chị em xấu số bất hạnh:
- Hết nước rồi Nghiên ơi, ai đời cả phòng 70 người mà cho được hai gánh nước sôi, bảo ai ăn ai đừng?
- Đúng rồi đấy. Mang tiếng là chủ nhật mà điểm buồng từ 5 giờ sáng, bắt chị em nhịn đến 9 giờ mới cho nước để dội cháo, dội mỳ. Mà nước có sôi đâu hả giời? Làm gì chả chóng hết, chả người nọ ăn thì người kia nhịn?
Thế là em quẩy quả lên phòng thi đua gặp cán bộ quản giáo yêu cầu nhà bếp cho thêm nước... Tất nhiên là lời qua tiếng lại, nhưng từ chối một người can đảm có lý luận như em thì thật là không tiện mà mắng át rồi đuổi đi như những tù thường phạm khác càng không dám, cho nên, dù bị em “bắt bí” khó chịu lắm nhưng cũng đành phải...chịu khó vậy. Một gánh nước sôi sùng sục lại được trưởng buồng quảy về trong tiếng reo hò của chị em.
Đêm lạnh, đang trong chăn ấm mà bị tù réo thì dù có như dùi trống đánh bên tai, lũ cán bộ trực trại cũng lờ đi để dỗ giấc ngủ của mình, thế là cả buồng gần trăm con người tha hồ gào, hét:
- Thưa cán bộ, buồng 26 có người cấp cứu.
Mặc dù không dám trả lời như cánh bạn tù vẫn đùa: - “Ừ, mai cứu nhé” nhưng chúng cứ giả chết không chịu lên tiếng, không chịu làm nhiệm vụ...
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, một người bị ốm lên cơn nôn ọe co giật hay rên rỉ, cả phòng mất ngủ theo, vì thế không chịu nổi thói “giả câm giả điếc” của chúng, em cúi người, dùng dép, tập trung nội lực vào cổ tay ra sức đập, cổ họng sôi réo nỗi căm hờn:
- Công an đâu, đến ngay buồng 26 làm nhiệm vụ đưa người đi cấp cứu!
Nghe chất giọng sắc lẹm đanh thép, khẩu khí vượt trội so với đám tù hèn kém, bố chúng cũng không dám nằm ì hoặc giả câm giả điếc nữa, lục sục vén màn tung chăn ngồi dạy, chân thấp chân cao chạy xuống, miệng thơn thớt nheo nhéo:
- Có ngay! có ngay!
Cửa vừa bật mở, nhóm bạn tù người thở phào một hơi nhẹ nhõm, người láu tháu mách:
- Thưa bà, sao bà bắt chúng cháu đợi lâu thế, chị Hiền chị ấy...
Em gạt phắt đi:
- Không bà cháu, xin xỏ gì ở đây hết, Chị Hồng trưởng buồng đâu, lấy giấy bút ra lập biên bản vì sao gọi cấp cứu cả nửa tiếng không xuống, điều lệ quy định nào cho phép như vậy? Mạng người rẻ rúng đến vậy sao?
Tên cán bộ tái mặt vì sợ, vôi vàng gọi điện thoại cho đồng bọn xuống tiếp ứng, gọi bác sĩ từ nhà riêng đến khám... không dám mở miệng nói một câu, còn người tù nôn ra mật xanh mật vàng không nói được nhưng cứ nắm chặt tay em, cặp mắt nhòa nước vì cảm động.
Từ đó không thành luật lệ quy định, nhưng hễ gọi cai ngục đến lần thứ hai không có tiếng đáp là phòng nọ lại nhắn sang phòng kia nhờ em gọi giúp, và cánh cai ngục cũng sợ giọng em hơn mệnh lệnh của thủ trưởng, cứ là răm rắp tuân theo. Tù thoát cảnh nằm kề cửa mả, tuy không nói ra miệng nhưng thầm coi em như một vị cứu tinh, một người tù chính trị hiểu biết giàu lòng nhân ái thương người.
Năm 1917, Lê Nin, ông tổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nói: “Nếu muốn chế độ Nga Hoàng chóng sụp đổ, hãy đẩy nó đến chỗ tận cùng của sự khốn nạn”. Sau 81 năm tồn tại, chế độ độc tài cộng sản cũng tự đẩy mình tới chỗ tận cùng của sự khốn nạn rồi em ạ. Hy vọng ngày em ra khỏi cổng nhà tù trại 5 (14-8-2012) cũng là ngày cáo chung của cộng sản. Chị em mình không những tay bắt mặt mừng chào đón em ra tù mà còn có thể nâng cốc chúc mừng cho đảng cộng sản “mồ yên mả đẹp” nữa. Tự nhiên luôn trừng trị những gì đi quá giới hạn được phép, phải không em?
Sacramento 19-12-2011
TKTT
(* ) Núi Mành:Nghiã địa của trại , nơi chôn các tù nhân khốn khổ từ năm 1947 khi mới thành lập, do tên Tống văn Sơ làm trưởng trại
(**) knt:Không nhận tội: Tiêu chuẩn xếp loại đạo đức hàng tháng của TKTT, PTN và TNA, trước đó là LTCN, Phạm Hồng Sơn v.v